Sỏi thận là gì? Các công bố khoa học về Sỏi thận
Sỏi thận là tình trạng mà tụ cứng của các chất khoáng trong nước tiểu gây ra các cục sỏi trong thận. Các cặn bã chất rắn dưới dạng sỏi có thể hình thành do sự t...
Sỏi thận là tình trạng mà tụ cứng của các chất khoáng trong nước tiểu gây ra các cục sỏi trong thận. Các cặn bã chất rắn dưới dạng sỏi có thể hình thành do sự tập trung quá mức của muối, acid uric, canxi, oxalat và các chất khác trong nước tiểu. Sỏi thận có thể gây ra đau lưng, đau thận, nhiễm trùng nước tiểu và các vấn đề tiểu tiện khác. Điều trị sỏi thận có thể bao gồm uống nước nhiều, sử dụng thuốc giãn cơ thận, và trong một số trường hợp cần thực hiện phẫu thuật để loại bỏ sỏi.
Sỏi thận là một tình trạng mà các chất khoáng trong nước tiểu, như canxi, oxalat, axit uric và cystin, tập trung lại để tạo thành các cục sỏi trong thận. Các cục sỏi có thể có kích thước nhỏ và đi qua hệ thống tiết niệu mà không gây ra triệu chứng. Tuy nhiên, khi sỏi cố định trong thận hoặc gây tắc nghẽn trong đường tiết niệu, các triệu chứng có thể xuất hiện.
Các triệu chứng của sỏi thận bao gồm đau lưng hoặc đau thận, tiểu đau, tiểu buốt, tiểu nhiều và có thể có máu trong nước tiểu. Một số người có thể cảm thấy buồn nôn hoặc nôn mửa. Ngoài ra, sỏi thận có thể gây viêm nhiễm nước tiểu, làm tăng nguy cơ tái phát nhiễm trùng và gây hư hại cho thận.
Để chẩn đoán sỏi thận, các phương pháp hình ảnh như chụp X-quang, siêu âm, hoặc CT-scan thường được sử dụng để xem xét cấu trúc và kích thước của sỏi. Xét nghiệm nước tiểu cũng có thể được yêu cầu để xác định thành phần của sỏi.
Điều trị sỏi thận có thể bao gồm:
1. Uống nhiều nước: Uống đủ nước mỗi ngày giúp pha loãng nước tiểu và làm giảm nguy cơ hình thành sỏi mới.
2. Thuốc giãn cơ thận: Một số loại thuốc như alphablocker hoặc calcium channel blocker có thể được sử dụng để giãn cơ thận và giúp sỏi di chuyển qua hệ thống tiết niệu dễ dàng hơn.
3. Quản lý đau: Đau liên quan đến sỏi thận có thể được quản lý bằng các thuốc giảm đau hoặc thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs).
4. Quản lý nhiễm trùng: Trong trường hợp sỏi thận gây ra nhiễm trùng nước tiểu, kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị.
5. Phiẻu thuật: Trong một số trường hợp, sỏi thận lớn hoặc không thể vượt qua hệ thống tiết niệu một cách tự nhiên có thể yêu cầu phẫu thuật để loại bỏ sỏi.
Nếu bạn có triệu chứng hoặc nghi ngờ mắc sỏi thận, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ để được khám và được chỉ định điều trị phù hợp.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sỏi thận":
Chu trình metan toàn cầu bao gồm cả các quá trình trên đất và bầu khí quyển và có thể góp phần điều chỉnh phản hồi của khí hậu. Hầu hết các loại đất ôxi đều là nơi tiêu thụ metan, và các loại đất này tiêu thụ khoảng 20 đến 60 Tg metan mỗi năm. Sự hấp thụ metan khí quyển từ đất là do vi sinh vật thực hiện và nhạy cảm với sự xáo trộn. Sự giảm khả năng hấp thụ của bể chứa này có thể đã góp phần vào sự gia tăng khoảng 1% · năm−1 trong mức độ metan khí quyển trong thế kỷ này. Các sinh vật chịu trách nhiệm cho việc hấp thụ metan qua đất (bể chứa metan khí quyển) vẫn chưa được xác định, và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các sinh vật này cũng chưa được hiểu rõ. Trong nghiên cứu này, quần thể vi khuẩn oxy hóa metan trong đất được đặc trưng hóa bằng cách gán nhãn vi sinh vật đất bằng 14 CH4 và phân tích thư viện gen monooxygenase của đất tổng số. Các phân tích so sánh các hồ sơ axit béo liên kết este phospholipid [14C] thực hiện với các vi khuẩn oxy hóa metan đại diện đã chỉ ra rằng bể chứa metan khí quyển trong đất bao gồm một nhóm vi khuẩn methanotrophic chưa được biết đến, có một số tương đồng với loại II methanotrophs. Phân tích thư viện gen monooxygenase từ cùng một mẫu đất cho thấy có một nhóm vi khuẩn chưa được biết đến thuộc subclass α của lớp
Bối cảnh.—Các bệnh nhân mắc hội chứng Down sống đến tuổi trung niên đều phát triển những đặc điểm bệnh lý thần kinh của bệnh Alzheimer, tạo ra một tình huống độc đáo để nghiên cứu sự phát triển sớm và liên tiếp của những thay đổi này.
Mục tiêu.—Nghiên cứu sự phát triển của các mảng bám amyloid, các mảng bám già (senile plaques), phản ứng của tế bào thần kinh đuôi (astrocytes) và tế bào microglia, cũng như các búi sợi thần kinh (neurofibrillary tangles) trong não của những cá nhân trẻ tuổi (<30 tuổi) mắc hội chứng Down.
Phương pháp.—Nghiên cứu mô học và nghiên cứu hóa miễn dịch tế bào của một loạt các bộ não từ pháp y (n = 14, từ các đối tượng từ 11 tháng đến 56 tuổi, trong đó có 9 đối tượng <30 tuổi) được khảo sát tại Văn phòng Giám đốc Y tế của Bang Maryland và Bệnh viện Johns Hopkins.
Kết quả.—Những quan sát chính bao gồm sự hiện diện của sự nhuộm Aβ nội tế bào trong hồi hải mã và vỏ não của các bệnh nhân hội chứng Down rất trẻ (trước sự lắng đọng Aβ ngoại bào) và sự hình thành các mảng bám già và các búi sợi thần kinh.
Kết luận.—Chúng tôi đề xuất chuỗi sự kiện sau trong sự phát triển của những thay đổi bệnh lý thần kinh của bệnh Alzheimer ở hội chứng Down: (1) tích lũy Aβ nội bào trong các tế bào thần kinh và tế bào đuôi, (2) lắng đọng Aβ ngoại bào và hình thành các mảng bám khuếch tán, và (3) phát triển các mảng bám thần kinh và các búi sợi thần kinh với sự kích hoạt của các tế bào microglia.
Chúng tôi đã xem xét tác động của sự lắng đọng axit và các nguồn axit khác trong suốt 110–140 năm qua lên đất dưới rừng (Broadbalk và Geescroft Wildernesses) và đồng cỏ (Park Grass), bao gồm một số thí nghiệm cổ điển tại Trạm Thí nghiệm Rothamsted. Những thay đổi trong hóa học đất đã được theo dõi bằng cách phân tích một số mẫu lưu trữ độc đáo cho pH, cation cơ bản tan trong nước và có khả năng trao đổi, nhôm, sắt và mangan, độ acid trao đổi, khả năng trao đổi cation (CEC) và anion tan. Các cân bằng proton và dữ liệu lịch sử cho thấy tầm quan trọng của sự lắng đọng axit đối với sự axit hóa và những thay đổi đồng thời trong hóa học của đất. Giá trị pH của đất mặt ở Geescroft Wilderness đã giảm từ 6.2 xuống 3.8 kể từ năm 1883. Sự giảm pH của mảnh đất không được vôi hóa và không phân bón ở Park Grass ít hơn trong cùng một khoảng thời gian (từ pH 5.2 xuống 4.2), minh họa tác động đáng kể của tán cây rừng lên việc ngăn chặn các chất ô nhiễm có khả năng axit hóa. Tác động của sự gia tăng độ axit lên hóa học đất của Geescroft Wilderness được thấy qua việc giảm độ bão hòa cơ bản và CEC, với các cation cơ bản di chuyển xuống sâu trong hồ sơ đất. Các khoáng vật đất sét đang bị phong hóa không thể hồi phục, và Mn cùng với Al đang dần được thúc đẩy, đến nỗi hiện tại Al chiếm 70% của phức hợp trao đổi trong đất mặt. Ngay cả với sự giảm lắng đọng lưu huỳnh hiện tại, các tải trọng quan trọng đối với lưu huỳnh, nitơ và độ axit vẫn đang bị vượt quá. Những hệ sinh thái bán tự nhiên như vậy là không bền vững dưới bối cảnh ô nhiễm hiện tại.
Các cộng đồng vi khuẩn methanotrophic đã được nghiên cứu trong một số loại đất gleyic bão hòa nước theo chu kỳ. Khi thu mẫu, mỗi loại đất đều có một lớp bề mặt ôxy và tiêu thụ metan từ khí quyển (tại 1.75 ppmv). Trong hầu hết các loại đất gleyic, giá trị Km(app) cho metan nằm trong khoảng từ 70 đến 800 ppmv. Những giá trị này cao hơn hầu hết các giá trị quan sát được trong đất đồi khô, nhưng thấp hơn so với các giá trị đo được trong đất ngập nước. Dựa trên việc thu nhận độc lập và định lượng gen
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10